LỊCH SỬ NƯỚC MỸ - NGẮN GỌN VÀ ĐẦY ĐỦ NHẤT
Mỹ được thành lập như là kết quả tất yếu của Cách mạng Mỹ khi mười ba thuộc địa của Mỹ nổi dậy chống lại sự cai trị của Vương quốc Anh. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hiến pháp Hoa Kỳ đã thành lập một chính phủ mới. Mười ba thuộc địa này đã trở thành 13 tiểu bang đầu tiên khi mỗi quốc gia sẽ phê chuẩn Hiến pháp. Tiểu bang đầu tiên phê chuẩn Hiến pháp là Delaware vào ngày 7 tháng 12 năm 1787.
Ảnh: Lịch sử nước Mỹ (Internet)
1585-1776
Khoảng thời gian của việc mở rộng thuộc địa của thực dân Anh ở châu Mỹ kéo dài từ năm 1585 đến năm 1776. Các nỗ lực đầu tiên bởi người Anh đến định cư ở Bắc Mỹ bắt đầu với Roanoke Colony trong 1585. Roanoke Colony thất bại, nhưng đã được thay thế bởi Jamestown vào năm 1607. Jamestown, Virginia trở thành khu định cư tiếng Anh đầu tiên ở Châu Mỹ.
Sự hiện diện của người Anh tiếp tục mở rộng dọc theo bờ biển phía đông Bắc Mỹ, cuối cùng phát triển thành mười ba thuộc địa riêng biệt. Khi các thuộc địa tăng trưởng về dân số và sự giàu có, họ ngày càng trở nên độc lập khỏi Anh. Khi nước Anh bắt đầu đánh thuế các thuộc địa vào giữa những năm 1700, các thuộc địa đã phản đối nói rằng họ sẽ không đứng ra "đánh thuế nếu không có đại diện". Năm 1775, Chiến tranh Cách mạng nổ ra giữa Anh và các thuộc địa. Các thuộc địa chính thức tuyên bố độc lập vào năm 1776 tạo thành Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Tôn giáo
Tôn giáo đã đóng một vai trò lớn trong việc định cư và thành lập nhiều thuộc địa của Mỹ. Plymouth Colony phần lớn được thành lập bởi những người theo đạo Hồi ly khai (những người muốn tách khỏi Giáo hội Anh). Thuộc địa Vịnh Massachusetts được định cư bởi những người Thanh giáo đang bị đàn áp ở Anh. Rhode Island và Connecticut đều được thành lập bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người muốn tự do tôn giáo vượt ra ngoài Massachusetts. Pennsylvania được thành lập bởi nhóm người theo chủ nghĩa Quakers và Maryland được thành lập như một nơi trú ẩn an toàn cho người Công giáo.
Lãnh thổ Tây Bắc
Sau Chiến tranh Cách mạng Mỹ, Hoa Kỳ đã giành quyền kiểm soát các phần lớn của vùng đất biên giới ở phía tây của 13 thuộc địa. Lúc đầu, vùng đất biên cương này được tổ chức thành các lãnh thổ lớn như Lãnh thổ Tây Bắc. Theo thời gian, nhiều vùng lãnh thổ này đã trở thành các bang như Kentucky, Tennessee và Ohio.
Mua Louisiana
Năm 1803, Tổng thống Thomas Jefferson đã mua một vùng đất rộng lớn từ Pháp có tên là Louisiana. Nó gần gấp đôi kích thước của đất nước Mỹ trước khi mua Louisiana. Vùng đất này cuối cùng đã trở thành một phần của nước Mỹ.
Chiến tranh Mỹ-Mexico
Vùng đất rộng lớn Texas trở thành một phần của Hoa Kỳ sau khi tuyên bố độc lập khỏi Mexico. Tuy nhiên, sau đó Hoa Kỳ và Mexico đã tham gia vào cuộc Chiến tranh Mỹ-Mexico. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giành được nhiều lãnh thổ hơn từ Mexico thông qua Hiệp ước Guadeloupe Hidalgo. Đất đai từ tất cả hoặc một phần của 10 tiểu bang đã trở thành một phần của Hoa Kỳ do hậu quả của cuộc chiến bao gồm California, Colorado và New Mexico.
Lãnh thổ Oregon
Cho đến những năm 1840, phần lớn phía tây bắc đã bị cả Anh và Hoa Kỳ tuyên bố chủ quyền. Hai nước đã đi đến một thỏa thuận vào năm 1846 gọi là Hiệp ước Oregon. Hiệp ước này đã trao cho Mỹ một vùng đất mà sau này trở thành các tiểu bang Oregon, Washington và Idaho cũng như một phần của Montana và Wyoming.
Mua Gadsden
Các phần phía nam của Arizona và New Mexico đã đạt được từ vụ Mua Gadsden vào năm 1853.
Alaska và Hawaii
Hai tiểu bang cuối cùng gia nhập Hoa Kỳ là Alaska và Hawaii. Alaska được mua từ Nga với giá 7,2 triệu đô la và Hawaii đồng ý gia nhập Hoa Kỳ với tư cách là tiểu bang thứ 50 vào năm 1959.
Nguồn: Fujihatsu - Cân điện tử Fujihatsu
(theo history.com, ducksters.com, un.org, icc-cpi.int và Wikipedia international news)
Bài viết liên quan:
1/ Cách mạng Mỹ - Dấu ấn về sự ra đời của nước Mỹ
http://fujihatsu.com/cach-mang-my-dau-an-ve-su-ra-doi-cua-nuoc-my-1-2-193124.html
2/ Chiến tranh lạnh - Cuộc chiến của các siêu cường Mỹ và Liên Xô
http://fujihatsu.com/chien-tranh-lanh-cuoc-chien-cua-cac-sieu-cuong-my-va-lien-xo-1-2-193122.html
Ảnh: Lịch sử nước Mỹ (Internet)
1585-1776
Khoảng thời gian của việc mở rộng thuộc địa của thực dân Anh ở châu Mỹ kéo dài từ năm 1585 đến năm 1776. Các nỗ lực đầu tiên bởi người Anh đến định cư ở Bắc Mỹ bắt đầu với Roanoke Colony trong 1585. Roanoke Colony thất bại, nhưng đã được thay thế bởi Jamestown vào năm 1607. Jamestown, Virginia trở thành khu định cư tiếng Anh đầu tiên ở Châu Mỹ.
Sự hiện diện của người Anh tiếp tục mở rộng dọc theo bờ biển phía đông Bắc Mỹ, cuối cùng phát triển thành mười ba thuộc địa riêng biệt. Khi các thuộc địa tăng trưởng về dân số và sự giàu có, họ ngày càng trở nên độc lập khỏi Anh. Khi nước Anh bắt đầu đánh thuế các thuộc địa vào giữa những năm 1700, các thuộc địa đã phản đối nói rằng họ sẽ không đứng ra "đánh thuế nếu không có đại diện". Năm 1775, Chiến tranh Cách mạng nổ ra giữa Anh và các thuộc địa. Các thuộc địa chính thức tuyên bố độc lập vào năm 1776 tạo thành Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Tôn giáo
Tôn giáo đã đóng một vai trò lớn trong việc định cư và thành lập nhiều thuộc địa của Mỹ. Plymouth Colony phần lớn được thành lập bởi những người theo đạo Hồi ly khai (những người muốn tách khỏi Giáo hội Anh). Thuộc địa Vịnh Massachusetts được định cư bởi những người Thanh giáo đang bị đàn áp ở Anh. Rhode Island và Connecticut đều được thành lập bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người muốn tự do tôn giáo vượt ra ngoài Massachusetts. Pennsylvania được thành lập bởi nhóm người theo chủ nghĩa Quakers và Maryland được thành lập như một nơi trú ẩn an toàn cho người Công giáo.
Sau Chiến tranh Cách mạng Mỹ, Hoa Kỳ đã giành quyền kiểm soát các phần lớn của vùng đất biên giới ở phía tây của 13 thuộc địa. Lúc đầu, vùng đất biên cương này được tổ chức thành các lãnh thổ lớn như Lãnh thổ Tây Bắc. Theo thời gian, nhiều vùng lãnh thổ này đã trở thành các bang như Kentucky, Tennessee và Ohio.
Mua Louisiana
Năm 1803, Tổng thống Thomas Jefferson đã mua một vùng đất rộng lớn từ Pháp có tên là Louisiana. Nó gần gấp đôi kích thước của đất nước Mỹ trước khi mua Louisiana. Vùng đất này cuối cùng đã trở thành một phần của nước Mỹ.
Chiến tranh Mỹ-Mexico
Vùng đất rộng lớn Texas trở thành một phần của Hoa Kỳ sau khi tuyên bố độc lập khỏi Mexico. Tuy nhiên, sau đó Hoa Kỳ và Mexico đã tham gia vào cuộc Chiến tranh Mỹ-Mexico. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giành được nhiều lãnh thổ hơn từ Mexico thông qua Hiệp ước Guadeloupe Hidalgo. Đất đai từ tất cả hoặc một phần của 10 tiểu bang đã trở thành một phần của Hoa Kỳ do hậu quả của cuộc chiến bao gồm California, Colorado và New Mexico.
Lãnh thổ Oregon
Cho đến những năm 1840, phần lớn phía tây bắc đã bị cả Anh và Hoa Kỳ tuyên bố chủ quyền. Hai nước đã đi đến một thỏa thuận vào năm 1846 gọi là Hiệp ước Oregon. Hiệp ước này đã trao cho Mỹ một vùng đất mà sau này trở thành các tiểu bang Oregon, Washington và Idaho cũng như một phần của Montana và Wyoming.
Mua Gadsden
Các phần phía nam của Arizona và New Mexico đã đạt được từ vụ Mua Gadsden vào năm 1853.
Alaska và Hawaii
Hai tiểu bang cuối cùng gia nhập Hoa Kỳ là Alaska và Hawaii. Alaska được mua từ Nga với giá 7,2 triệu đô la và Hawaii đồng ý gia nhập Hoa Kỳ với tư cách là tiểu bang thứ 50 vào năm 1959.
Nguồn: Fujihatsu - Cân điện tử Fujihatsu
(theo history.com, ducksters.com, un.org, icc-cpi.int và Wikipedia international news)
Bài viết liên quan:
1/ Cách mạng Mỹ - Dấu ấn về sự ra đời của nước Mỹ
http://fujihatsu.com/cach-mang-my-dau-an-ve-su-ra-doi-cua-nuoc-my-1-2-193124.html
2/ Chiến tranh lạnh - Cuộc chiến của các siêu cường Mỹ và Liên Xô
http://fujihatsu.com/chien-tranh-lanh-cuoc-chien-cua-cac-sieu-cuong-my-va-lien-xo-1-2-193122.html
Chia Sẻ :